Ghép tế bào gốc tạo máu là gì? Các công bố khoa học về Ghép tế bào gốc tạo máu

Ghép tế bào gốc tạo máu (Stem cell transplant) là quá trình chuyển giao tế bào gốc tạo máu từ một nguồn sang một cá nhân khác để điều trị một loại bệnh liên qua...

Ghép tế bào gốc tạo máu (Stem cell transplant) là quá trình chuyển giao tế bào gốc tạo máu từ một nguồn sang một cá nhân khác để điều trị một loại bệnh liên quan đến hệ thống tạo máu, chẳng hạn như ung thư máu (như bệnh bạch cầu bất thường hoặc ung thư tủy xương) hoặc bệnh thalassemia. Quá trình này bao gồm việc thu thập tế bào gốc từ nguồn (thường là tủy xương hoặc máu tuỷ), sau đó tế bào gốc được ghép vào cơ thể người bệnh thông qua tĩnh mạch để tạo ra các tế bào máu mới và thay thế các tế bào máu bị tổn thương hoặc bất thường. Ghép tế bào gốc tạo máu có thể giúp cải thiện hệ thống tạo máu và tăng cường chức năng miễn dịch.
Quá trình ghép tế bào gốc tạo máu có thể được thực hiện bằng hai phương pháp chính: ghép tế bào gốc tủy xương (bone marrow transplant) và ghép tế bào gốc máu tuỷ (peripheral blood stem cell transplant). Dưới đây là các bước chi tiết của quá trình ghép tế bào gốc tạo máu:

1. Chuẩn bị nguồn tế bào gốc: Tế bào gốc tạo máu có thể được thu thập từ bản thân của người bệnh hoặc từ một người khác (nguồn hiến tặng). Nếu nguồn tế bào gốc đến từ bản thân, quá trình này gọi là ghép tế bào gốc tự thân. Nếu tế bào gốc đến từ nguồn hiến tặng, quá trình này gọi là ghép tế bào gốc không tự thân.

2. Tiền xử lý: Trước khi ghép, tế bào gốc cần được tiền xử lý. Điều này bao gồm điều trị chuẩn bị như hóa trị xạ trị (chemotherapy) hoặc phôi tạng (total body irradiation) để loại bỏ tế bào gốc tồi tệ hoặc loại bỏ tế bào gốc của người bệnh trước khi ghép.

3. Ghép tế bào gốc: Tế bào gốc được chuyển giao vào cơ thể người bệnh thông qua ống tĩnh mạch. Quá trình này tương tự như trong việc tiêm dịch thông qua mạch máu. Tế bào gốc di chuyển đến tủy xương và bắt đầu tạo ra các tế bào máu mới.

4. Hồi phục: Sau khi ghép, tế bào gốc sẽ di chuyển vào tủy xương và bắt đầu tạo ra các tế bào máu mới. Quá trình hồi phục có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng. Trong thời gian này, người bệnh cần được chăm sóc và theo dõi một cách cẩn thận để đảm bảo hệ thống miễn dịch và hệ thống tạo máu hồi phục tốt.

5. Theo dõi và chăm sóc sau ghép: Sau khi ghép, người bệnh cần được theo dõi và chăm sóc theo lịch trình định kỳ. Các bác sĩ sẽ kiểm tra tình trạng tạo máu và hệ thống miễn dịch để đảm bảo sự hồi phục thành công và ngăn ngừa các biến chứng có thể xảy ra sau quá trình ghép.

Quá trình ghép tế bào gốc tạo máu có thể mang lại lợi ích lớn cho người bệnh, như khắc phục các bệnh lý hệ thống tạo máu hoặc cải thiện hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, có thể tồn tại một số rủi ro và tác động phụ, vì vậy quyết định về quá trình ghép tế bào gốc tạo máu nên được thực hiện sau khi xem xét kỹ lưỡng từ các chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ghép tế bào gốc tạo máu":

Vai trò tiềm năng của lactoferrin và các dẫn xuất trong việc quản lý các biến chứng nhiễm trùng và viêm ở bệnh nhân huyết học nhận ghép tế bào gốc tạo máu Dịch bởi AI
Transplant Infectious Disease - Tập 10 Số 2 - Trang 80-89 - 2008

Tóm tắt: Lactoferrin ở người là một protein phòng thủ tự nhiên thuộc hệ miễn dịch bẩm sinh, có mặt trong nhiều dịch cơ thể và tiết ra, cũng như trong các hạt thứ cấp của bạch cầu trung tính đa hình. Lactoferrin và các dẫn xuất của nó có chức năng pleiotropic bao gồm hoạt động kháng khuẩn rộng, hoạt động chống khối u, điều hòa sự tăng trưởng và biệt hóa của tế bào, cũng như điều chỉnh phản ứng viêm, miễn dịch thể dịch và tế bào. Đó là lý do vì sao nhiều nghiên cứu đã chú trọng đến hoạt tính trị liệu tiềm năng của các phân tử này trong nhiều môi trường lâm sàng khác nhau, đặc biệt liên quan đến các bệnh truyền nhiễm và tình trạng viêm không kiểm soát. Ở những bệnh nhân mắc bệnh ác tính huyết học được điều trị bằng ghép tế bào gốc tạo máu (HSCT), tỷ lệ morbid và tử vong do nhiễm trùng và viêm không kiểm soát vẫn cao, mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong chăm sóc hỗ trợ. Những biến chứng đe dọa đến tính mạng này là kết quả của thiệt hại do chế độ điều trị gây ra đối với hàng rào niêm mạc, cũng như hệ thống miễn dịch bẩm sinh và thích ứng, miễn dịch thể dịch và tế bào. Những biến chứng này yêu cầu phải tiếp tục khám phá các phương thức điều trị mới. Mức lactoferrin toàn thân và có thể cả tại chỗ giảm sau khi ghép tế bào gốc tạo máu. Do đó, việc sử dụng lactoferrin, hoặc các dẫn xuất peptide ngắn giữ lại nhóm N-terminal cationic mà thiết yếu cho hoạt động kháng khuẩn và chống viêm, có thể chứng minh là lớp tác nhân đa năng hứa hẹn cho việc quản lý các biến chứng phát sinh từ HSCT.

Một số ảnh hưởng trên chức năng thất trái ở các bệnh nhân ghép tế bào gốc điều trị bệnh máu ác tính
Hiện nay ung thư và các bệnh máu ác tính đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Sự ra đời của phương pháp điều trị ghép tế bào gốc tạo máu cùng với sự phát triển của hóa trị liệu đã mang lại cơ hội sống cho nhiều bệnh nhân mắc bệnh máu ác tính nhưng đồng thời cũng làm gia tăng gánh nặng bệnh tật do tác dụng phụ của hóa trị liệu trong đó có bệnh lý tim mạch. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng phương pháp siêu âm tim 2D nhằm đánh giá chức năng thất trái ở các bệnh nhân này. Kết quả cho thấy, phân số tống máu thất trái và sức căng cơ tim toàn bộ theo chiều dọc giảm ở thời điểm sau ghép tế bào gốc 1 tháng (khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05) và có sự hồi phục ở thời điểm sau ghép TBG 3 tháng. Vận tốc sóng E, tỷ lệ E/A, và vận tốc sóng e’ bên giảm sau ghép 1 tháng (khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
#ghép tế bào gốc tạo máu #siêu âm tim 2-D #đánh dấu mô cơ tim #nhiễm độc cơ tim
Nghiên cứu kêt quả ghép tế bào gốc tạo máu tự thân ở bệnh nhân u lympho không hodgkin tế bào B tái phát tại Bệnh viện Bạch Mai
Hóa trị liệu liều cao kết hợp với ghép tế bào gốc tạo máu tự thân điều trị u lympho không Hodgkin tái phát/dai dẳng là phương pháp điều trị hiện đại có hiệu quả cao. Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị u lympho không Hodgkin tế bào B tái phát bằng phương pháp ghép tế bào gốc tạo máu tự thân. 12 người bệnh u lympho không Hodgkin tế bào B tái phát được lựa chọn, phương pháp nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh. Thời gian mọc mảnh ghép trung bình đối với bạch cầu trung tính và tiểu cầu là: 10,2 và 13,3 ngày, thời gian nằm viện trung bình là 33,8 ngày. Tỷ lệ đạt đáp ứng hoàn sau ghép tế bào gốc đạt 11/12 người bệnh. Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển và sống thêm toàn bộ trung bình tính theo Kaplan - Meier ước tính là: 44,4 ± 8,3 tháng và 56,1 ± 7,1 tháng. Tỷ lệ sống thêm không sự kiện và sống thêm toàn bộ ước tính tại thời điểm 3 năm là: 72,7% và 81,8%; tại thời điểm 5 năm là: 48,5% và 61,4%.
#U lympho không Hodgkin #ghép tế bào gốc tạo máu #Bệnh viện Bạch Mai
Theo dõi và chăm sóc tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa ở bệnh nhân ghép tế bào gốc tạo máu
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và mức độ tổn thương đường tiêu hóa ở các bệnh nhân ghép tế bào gốc tạo máu. Đánh giá kết quả của biện pháp can thiệp dự phòng tổn thương đường tiêu hóa. Đối tượng và phương pháp: Theo dõi 27 bệnh nhân ghép tế bào gốc tạo máu tại Trung tâm Ghép tế bào gốc-Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 4 năm 2022. Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang. Kết quả: 25/27 bệnh nhân bị viêm loét miệng trong quá trình ghép. Viêm loét miệng độ 3 chiếm 33,3%. 100% bệnh nhân buồn nôn/nôn, trong đó 33,3% bệnh nhân nôn độ 1, 29,6% bệnh nhân nôn độ 2 và 37,0% bệnh nhân nôn độ 3. Tất cả các bệnh nhân đều bị tiêu chảy, với 14,8% độ 1, 44,4% độ 2 và 40,7% độ 3. Sử dụng phương pháp làm lạnh khoang miệng giúp làm giảm mức độ viêm loét miệng và tiêu chảy, nhưng không làm giảm mức độ nôn cho bệnh nhân ghép. Kết luận: Tổn thương đường tiêu hóa là biến chứng gặp ở hầu hết bệnh nhân ghép tế bào gốc tạo máu. Theo dõi và chăm sóc của điều dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong phòng ngừa, phát hiện sớm và giảm nhẹ các biến chứng của ghép
#Đường tiêu hóa #ghép tế bào gốc tạo máu #viêm loét miệng #làm lạnh khoang miệng
Hóa chất liều cao và cấy ghép tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư buồng trứng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 2 - Trang 10-16 - 2016
Ung thư buồng trứng chiếm tỷ lệ tử vong hàng đầu trong ung thư phụ khoa, khoảng 80% bệnh nhân có đáp ứng trên nền platin. Phác đồ chuẩn hiện nay là paclitaxel kết hợp với carboplatin có tỷ lệ đáp ứng khoảng 75%. Do độc tính thần kinh và giảm tiểu cầu, các nỗ lực gia tăng thêm liều paclitaxel đang gây nhiều tranh cãi. Đường dùng trong khoang phúc mạc có cường độ liều được tăng lên gấp 20 lần . Trong trường hợp tái phát và đề kháng thuốc, hóa trị liều cao trên nền Platinum cho thấy có sự cải thiện về thời gian sống còn trung bình nói chung. Đối với điều trị ban đầu bệnh lý tiến triển, phác đồ 6 chu kỳ đầu với liều thông thường cisplatin và cyclophosphamide, tiếp theo là liều cao cisplatin, carboplatin, etoposide cho tỷ lệ khỏi bệnh hoàn toàn là 42%. Cách tiếp cận thứ hai là dùng ngay nhiều đợt hóa trị liều cao với sự hỗ trợ tế bào gốc cũng cho thấy kết quả khích lệ. Với những tiến bộ về huyết học trong hỗ trợ tạo huyết, bao gồm sự phát triển của các yếu tố kích thích dòng tế bào (CSFs) và cấy ghép tế bào gốc máu ngoại vi cho phép tăng liều hóa chất so với điều trị cơ bản. Các nghiên cứu về hóa trị liều cao với carboplatin và paclitaxel được hỗ trợ bởi cấy ghép tế bào gốc tạo máu và các cytokine ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát hoặc ở giai đoạn muộn cho thấy có sự cải thiện rõ về tỷ lệ đáp ứng với điều trị lên đến 89% (SWOG 9106), thời gian trung bình sống còn tổng thể (OS) là 18 tháng và tỷ lệ sống còn lúc 60 tháng là 14%.
#Hóa trị liều cao #cấy ghép tế bào gốc #ung thư buồng trứng
37. Khảo sát thời gian mọc mảnh ghép hồng cầu ở bệnh nhân ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài tại Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương giai đoạn 2019 - 2022
Cung cấp dữ liệu về thời gian mọc ghép hồng cầu giúp cho các bác sĩ lâm sàng có thể tiên lượng và đưa ra những quyết định liên quan đến truyền máu phù hợp với từng giai đoạn của cuộc ghép. Để khảo sát thời gian và tỷ lệ mọc ghép hồng cầu ở một số nhóm bệnh nhân ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài, nghiên cứu được tiến hành hồi cứu loạt ca bệnh trên 37 bệnh nhân thực hiện ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài. Kết quả cho thấy thời gian mọc hồng cầu lưới ở nhóm bất đồng chủ yếu là 17,8 ± 5 ngày, bất đồng thứ yếu là 12,5 ± 2,2 ngày. Thời gian chuyển đổi hoàn toàn sang loại kháng nguyên hồng cầu ABO từ người cho là 15,3 ± 7,1 tuần. Thời gian hết phụ thuộc truyền hồng cầu nhóm bất đồng chủ yếu là 25 ± 18,2 ngày, bất đồng thứ yếu là 16,6 ± 10,2 ngày. Nhóm bất đồng chủ yếu có thời gian mọc hồng cầu lưới chậm hơn, thời gian chuyển đổi kháng nguyên hồng cầu tương đương nhóm bất đồng thứ yếu, và có xu hướng hết phụ thuộc truyền máu chậm hơn nhóm bất đồng thứ yếu.
#Không hoà hợp nhóm ABO #mọc ghép hồng cầu #phục hồi hồng cầu lưới #kháng nguyên ABO từ người cho #ghép tế bào gốc đồng loài
ĐẶC ĐIỂM KIỂU GEN HLA Ở NGƯỜI CHO TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 2 - 2023
Đặt vấn đề: Gen HLA (kháng nguyên bạch cầu người) nằm trên nhánh ngắn nhiễm sắc thể số 6, được chia thành 3 lớp với các locus gen khác nhau. Việc xác định kiểu gen HLA là rất cần thiết trong ghép, đặc biệt là trong ghép tế bào gốc tạo máu. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang xác định tỷ lệ các allele HLA-A, HLA-B, HLA-C và HLA-DRB1 trên 138 người cho tế bào gốc tạo máu tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ năm 2010 - 2020. Kiểu gen HLA được xác định bằng phương pháp PCR-SSP sử dụng bộ Kit Micro SSPTM Generic HLA Class I và II DNA Typing Tray (One Lambda). Kết quả: Đối với locus HLA-A xác định được 14 allele, trong đó các allele có tỷ lệ cao nhất là A*11 (23,55%), A*02 (21,74%), A*33 (17,39%) và A*24 (13,04%). Locus HLA-B có 26 allele, trong đó các allele có tỷ lệ cao nhất là B*15 (22,83%), B*58 (11,23%), B*46 (10,87%) và B*07 (7,61%). Locus HLA-C có 9 allele, trong đó các allele có tỷ lệ cao nhất là C*03 (19,93%), C*07 (18,84%), C*01 (16,30%) và C*08 (15,22%). Locus HLA-DRB1 có 14 allele, trong đó các allele có tỷ lệ cao nhất là DRB1*12 (22,83%), DRB1*04 (11,23%), DRB1*03 (10,87%) và DRB1*15 (9,06%). Có 2176 haplotype tổ hợp từ 4 locus HLA-A, HLA-B, HLA-C và HLA-DRB1, trong đó các haplotype có tỷ lệ cao nhất là A*02/B*46/C*01/DRB1*09 (1,19%), A*33/B*58/C*03/DRB1*03 (0,97%), A*11/B*15/C*08/ DRB1*12 (0,87%) và A*11/B*15/C*01/DRB1*12 (0,55%).
#HLA allele #HLA haplotype #Ghép tế bào gốc tạo máu #Bệnh viện Nhi Trung ương
Bệnh cấy ghép chống lại cơ thể mạn tính ở trẻ em và thanh thiếu niên mắc bệnh talassemia sau khi ghép tế bào gốc tạo máu Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 113 - Trang 556-565 - 2021
Dữ liệu về bệnh cấy ghép chống lại cơ thể mạn tính (cGVHD) ở bệnh nhân bệnh talassemia sau khi ghép tế bào gốc tạo máu (HSCT) vẫn chưa được nghiên cứu cụ thể. Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ và các triệu chứng lâm sàng của cGVHD ở trẻ em và thanh thiếu niên mắc bệnh talassemia đã trải qua HSCT, đồng thời so sánh việc sử dụng dịch vụ y tế và chi phí y tế giữa những bệnh nhân có cGVHD và những bệnh nhân không có. Chúng tôi đã phân tích lại một cách hồi cứu các biểu hiện, điều trị và kết quả của cGVHD theo tiêu chuẩn Seattle, cùng với các lần nhập viện sau ghép và chi phí y tế trực tiếp cho các bệnh nhân HSCT (n = 66). Chúng tôi đã sử dụng tiêu chí đồng thuận NIH năm 2014 để phân loại lại chẩn đoán cGVHD (cGVHD theo NIH). Trong số 28 bệnh nhân cGVHD trước đó, 13 (46,4%) đã đáp ứng tiêu chí NIH. Những lý do vì sao các tiêu chí NIH không đạt được là do được phân loại lại thành GVHD cấp tính muộn và sự hiện diện của các dấu hiệu đặc trưng mà không có các xét nghiệm xác nhận. Sau 2 năm sau HSCT, tỷ lệ tích lũy của cGVHD theo NIH là 21,67% (95% CI, 12,31–32,74%). cGVHD phổi có liên quan đến tỷ lệ sống sót thấp hơn với tỷ lệ nguy cơ là 13,6 (95% CI, 1,42–131,48). Bệnh nhân có cGVHD trước đó có tần suất nhập viện và chi phí y tế cao hơn đáng kể. Kết luận, cGVHD phổ biến ở trẻ em mắc bệnh thalassemia nhận được HSCT. Bệnh nhân có cGVHD cần điều trị ức chế miễn dịch kéo dài và phải chịu chi phí y tế cao.
#cGVHD #bệnh talassemia #ghép tế bào gốc tạo máu #trẻ em #thanh thiếu niên #chi phí y tế
21. Một số biến cố bất lợi ở bệnh nhân có bệnh tự miễn được ghép tế bào gốc tạo máu tự thân
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu trên 8 bệnh nhân bệnh tự miễn được ghép tế bào gốc tạo máu tự thân tại Bệnh viện Trung ương quân đội 108 nhằm mục tiêu đánh giá các biến cố bất lợi sau ghép. Các biến cố bất lợi được xác định theo hướng dẫn CTCAE 5.0 năm 2017. Kết quả cho thấy trong giai đoạn huy động, thu hoạch tế bào gốc gặp các biến cố bất lợi là mệt mỏi (100%), chán ăn (87,5%), buồn nồn (75%), nôn (25%), đau bụng (12,5%), đau xương (87,5%), giảm hemoglobin (50%), giảm bạch cầu, bạch cầu hạt và tiểu cầu đều là 62,5%, tăng ALT (12,5%). Các biến cố bất lợi chỉ nhẹ và thoáng qua, từ độ 1 đến độ 2 theo CTCAE 5.0. Giai đoạn điều trị điều kiện hóa gặp các biến cố bất lợi gồm mệt mỏi (100%), chán ăn (100%), buồn nôn (87,5%), nôn (87,5%), viêm niêm mạc miệng (25%), tiêu chảy (62,5%), đau bụng (37,5%), đau xương (75%), sốt giảm bạch cầu hạt (87,5%); giảm 3 dòng tế bào máu gặp ở 100% bệnh nhân. Men gan AST và ALT tăng nhẹ độ 1 và độ 2 (75%), không cần điều trị. Chức năng thận không bị ảnh hưởng. Một bệnh nhân (12,5%) bị nhiễm khuẩn huyết do Klebsiella pneumoniae trong giai đoạn giảm tế bào máu, đồng thời tái hoạt CMV, virus BK, đáp ứng với điều trị. Chưa gặp bệnh nhân tử vong trong quá trình ghép tế bào gốc.
#Ghép tế bào gốc tạo máu #bệnh tự miễn #CTCAE #lupus ban đỏ hệ thống #nhược cơ #biến cố bất lợi
Vi khuẩn miệng và nhiễm trùng huyết trong cấy ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 25 - Trang 4359-4367 - 2021
Chúng tôi nhằm mục tiêu so sánh vi khuẩn miệng và vi khuẩn gây bệnh trong các nhiễm trùng huyết (BSIs) trong cấy ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại (allo-HSCT). Chúng tôi cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa BSIs và viêm niêm mạc miệng để xác định tỷ lệ BSIs do vi khuẩn miệng gây ra và vi khuẩn gây bệnh liên quan. Chúng tôi đã thu thập dữ liệu về BSIs ở 96 bệnh nhân đã trải qua allo-HSCT tại viện của chúng tôi trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2009 đến tháng 12 năm 2019, bao gồm các tác nhân gây BSI được phân lập từ mẫu cấy máu (BBSIs) và vi khuẩn phân lập từ việc rửa khoang miệng bằng nước cất vô trùng. Các vi khuẩn miệng thu được vào thời điểm khởi phát BSI (OBSIs) và trong quá trình allo-HSCT (OSCTs) được xác định là các chủng được thu thập trong tuần cấy máu. Việc tham gia nghiên cứu được giới hạn đối với các mẫu được thu thập trong vòng 1 tháng sau allo-HSCT và không có BSI. Khi BBSI và OBSI giống nhau, chúng tôi coi vi khuẩn miệng là nguyên nhân gây ra BSI. Tỷ lệ mắc BSIs là 27%, và vi khuẩn phổ biến nhất là Staphylococci không tạo đông tụ. Hệ vi khuẩn bình thường đã giảm xuống còn 15.8% trong OBSIs và 25.5% trong OSCTs. Sự phân bố vi khuẩn không có hệ vi khuẩn bình thường cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa BBSIs và OSCTs (p < 0.05). Viêm niêm mạc miệng được phát hiện ở 72.9%, và BSI do vi khuẩn miệng gây ra xảy ra trong 46.2% các BSI ở bệnh nhân allo-HSCT. Sự phân bố vi khuẩn được thu thập từ máu ở bệnh nhân có BSI trong quá trình allo-HSCT được tìm thấy tương tự như vi khuẩn từ các mẫu nuôi cấy miệng. Việc theo dõi vi khuẩn miệng có thể dự đoán được BSI trong quá trình allo-HSCT.
#vi khuẩn miệng #nhiễm trùng huyết #cấy ghép tế bào gốc #viêm niêm mạc miệng #vi khuẩn gây bệnh
Tổng số: 23   
  • 1
  • 2
  • 3